Bối cảnh Cuộc vây hãm Acre (1291)

Năm 1187, sau khi đại bại trong trận Hattin, người Kitô hữu đã để mất thành Jerusalem vào tay các lực lượng của Saladin. Trong cùng năm đó, Saladin đã chinh phục một phần lớn lãnh thổ của Vương quốc Jerusalem bao gồm cà hai thành trì quan trọng là AcreJerusalem. Điều này đã dẫn đến cuộc Thập Tự Chinh thứ ba, và Acre đã được giành lại bởi vua Richard I của nước Anh vào năm 1191; từ đó thành phố trở thành các cơ sở hoạt động của quân Thập Tự và thủ đô của Vương quốc Jerusalem trong một thế kỷ tiếp theo. Các tổ chức hiệp sĩ tôn giáo đều đặt trụ sở chính của họ trong hoặc gần thành Acre, và từ đó họ ra những quyết định quan trọng về các nỗ lực quân sự và ngoại giao. Ví dụ như khi quân Mông Cổ đến từ phương Đông vào giữa thế kỷ thứ 13, các Kitô hữu đã nhận thấy họ sẽ là những đồng minh tiềm năng, không chỉ thế mà còn duy trì một vị trí trung lập thận trọng với các lực lượng Hồi giáo Mamluk ở Ai Cập. Năm 1260, các nam tước ở Acre đã cho phép các đội quân Mamluk đi qua lãnh thổ mà không gặp một sự cản trở nào, qua đó giúp quân Mamluk đạt được một chiến thắng quyết định chống lại quân Mông Cổ trong trận Ain JalutGalilee.

Tuy nhiên các mối quan hệ với người Mamluk không phải là lúc nào cũng tố đẹp. Với sự nổi lên của Vương quốc Hồi giáo MamlukAi Cập vào năm 1250, một kẻ thù nguy hiểm và ghê gớm hơn với việc sử dụng kị binh hạng nặng Ayyubids để đối chọi với các hiệp sĩ Thập Tự, sự tàn phá nhanh chóng đến với các lãnh thổ còn lại của quân THập Tự. Họ cũng đã chứng tỏ sự thù địch tăng lên nữa. Sau trận Ain Jalut, các lực lượng Mamluk bắt đầu tấn công các vùng đất mà người Thiên chúa giáo nắm giữ sớm nhất là vào năm 1261 dưới thời Sultan Baibars. Năm 1265, Caesarea, Haifa, Arsuf đều sụp đổ trước các kị binh của Sultan. Một năm sau, các tài sản của người Latin ở xứ Galilee đều bị chiếm hết. Năm 1268 Antioch đã bị chiếm đóng.

Để khắc phục những tổn thất này, một số cuộc thám hiểm thập tự chinh nhỏ đã được tiến hành. Vua Louis IX của Pháp đã phát động cuộc Thập Tự Chinh thứ tám đến Tunis năm 1270 nhằm hướng sự chú ý của người Hồi Giáo ra khỏi các lãnh thổ cuối cùng của Vương quốc Jerusalem. Hoàng tử Edward của Anh (sau này là Vua Edward I) cũng đã phát động cuộc Thập Tự Chinh thứ chín vào năm 1271-1272 để giải nguy cho các tiền đồn cuối cùng ở Đất Thánh. Không phải tất cả những cuộc chiến này đều có khả năng hỗ trợ cho các vùng đất Latin bị bao vây. Các lực lượng tham gia quá ít, thời gian của mỗi cuộc Thập tự chinh quá ngắn, lợi ích của những người tham gia quá đa dạng đã không cho phép bất kỳ thành tựu nào đủ vững chắc.

Sự sụp đổ của Tripoli năm 1289 là một trong những bước đầu tiên dẫn đến việc Acre thất thủ.

Đức Giáo hoàng Gregory X đã nỗ lực để kêu gọi thêm một cuộc thập tự chinh nữa nhưng những cố gắng của ông là vô ích. Sự thất bại của lời kêu gọi khác nhau được đổ lỗi cho các cố vấn của Đức Giáo hoàng, sự lười biếng của giới quý tộc châu Âu và sự tham nhũng trong hàng ngũ các giáo sĩ. Mặc dù mỗi người trong những yếu tố này đều có thể là một phần lỗi, nhưng một lý do cơ bản cho sự thất bại này dường như là sự giảm sút giá trị của các lý tưởng của cuộc Thập tự chinh. Việc sử dụng bởi Gregory X với đặc quyền của cuộc Thập tự chinh để tuyển dụng quân đội để chống lại kẻ thù châu Âu đã khiến cho Vatican phải mang tiếng xấu.

Bất chấp những nỗ lực của Đức Giáo hoàng, không có một cuộc thập tự chinh nào đủ lớn nào tới giúp cho các tiền đồn ở Levant. Trong khi đó, các cuộc tấn công vào Đông Latin vẫn được tiếp tục, cũng như những khó khăn trong nội bộ của Vương quốc Latinh. Năm 1276, tình hình đã trở nên rất nghiêm trọng, buộc "Vua của Jerusalem" Henry II phải đưa quân sang Palestine, khiến tất cả các tài sản của ông trên đảo Síp đều bị bỏ ngỏ hoặc có ít người bảo vệ. Hoàn cảnh của Vương quốc Latin càng ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Năm 1278, Lattakia thất thủ. Năm 1289, thành Tripoli đã bị mất trong cuộc bao vây Tripoli.

Sultan Qalawun đã bắt đầu chuẩn bị cho cuộc bao vây sắp tới nhưng ông lại qua đời vào tháng 11 năm 1290, và con trai của ông, Sultan Al-Ashraf Khalil lên nắm quyền, tiếp tục chuẩn bị cho cuộc bao vây thành Acre.[2]

Nỗ lực phòng thủ thành Acre

Liên minh Pháp - Mông Cổ đã không mang lại bất kì kết quả nào đáng kể, nhất là sau khi các nam tước ở Acre cho phép quân Ai Cập được an toàn đi qua lãnh thổ của các thành bang Thập Tự, gián tiếp giúp người Ả Rập đánh bại họ trong trận Ain Jalut. Trong khi đó, nỗ lực tăng cường binh lính từ Ý tới đã trở thành một cái cớ cho quân Mamluk khởi binh.

Người Hồi Giáo tấn công vào thành phố

Sau khi thành Tripoli thất thủ, vua Henry của Síp đã gửi tùy tướng Jean de Grailly sang châu Âu để cảnh báo các quốc vương châu Âu về tình hình nghiêm trọng ở Levant.[3] Jean đã được hội kiến với Đức Giáo hoàng Nicholas IV về những lo lắng của mình và đã viết một bức thư cho các quốc gia ở châu Âu, kêu gọi họ làm một điều gì đấy trước khi Đất Thánh rơi hết vào tay người Hồi Giáo. Tuy nhiên tất cả đều nhanh chóng từ chối, ví dụ như là vua Edward I đang quá vướng bận vào các rắc rối ở quê nhà.

Các tín đồ Kitô hữu lo ngại điều này sẽ cho phép Sultan Ai Cập có một thời cơ để tấn công và kêu gọi giáo hoàng gửi thêm nhiều viện trợ nữa tới. Người Ý vội vàng gửi viện trợ tới cho các thành bang cuối cùng ở Levant, với 16 tàu galley của Venice và 1.600 quân lính. Khoảng 20 tàu galley nữa tới từ TuscanyLombardy bởi Nicholas Tiepolo, con trai của Doge, những người được Jean de Grailly và Roux của Sully vận động.[4] Vua James II của Aragon mặc dù đang mâu thuẫn với Giáo hoàng và Venice nhưng vẫn gửi tới 5 tàu galley.[4]

Những đội quân tiếp viện tới từ Ý vô kỷ luật đã thường xuyên viện cớ không có lương để đến cướp bóc bừa bãi cả người Hồi giáo và người Thiên chúa giáo trước khi tới được Acre. Theo Runciman, họ đã tấn công và giết chết một số thương gia Hồi giáo sống ở xung quanh Acre vào tháng 8 năm 1290 mặc dù báo cáo của Michaud lại thay vào đó là họ đã tấn công các thị trấn và làng mạc, và tàn sát rất nhiều người Hồi Giáo. Sultan Qalawun đang cần thêm một cái cớ để tấn công nên đã đòi hỏi những kẻ phạm tội giết người phải bị giao nộp cho ông để ông có thể thực thi công lý. Sau các cuộc thảo luận kéo dài ở nhà tù của Acre, theo ý kiến của Guillaume de Beaujeu, Hội đồng thành phố Acre cuối cùng đã từ chối giao nộp bất cứ ai cho Qalawun, và thay vào đó đã đổ lỗi cho những người Hồi Giáo đã tấn công người Thiên chúa giáo trước.[5]

Và mặc dù một thỏa thuận ngừng bắn mười năm đã được ký kết vào năm 1289, nhưng Qalawun đã coi các vụ giết người là vị phạm thỏa ước. Bởi vậy vào tháng 10 năm ấy, Qalawun đã ra lệnh tổng động viên. Mặc dù Sultan qua đời vào tháng mười một, nhưng cũng kịp ra lệnh cho con trai, Khalil đem quân tiến đánh Acre.